Thứ Hai, 4 tháng 2, 2013

Nhân đọc Sửký TưMãThiên


Tần thời chiến quốc

Tần sau khi thống nhất

Tần Thủy Hoàng bản kỷ
" Năm thứ 33, Thủy Hoàng đưa những người thường trốn tránh, những người ở rể và những người đi buôn đánh lấy đất Lục Lương, lập thành Quế Lâm, Tượng Quận và Nam Hải cho những người bị đi đày đến đấy canh giữ"

Quế Lâm

Quế Lâm là một địa cấp thị ở phía đông bắc Khu tự trị dân tộc Choang Quảng TâyTrung Quốc, phía tây sông Li Giang. Tên thành phố có nghĩa là rừng quế đặt theo tên cây quế (Osmanthus spp.) mọc ven và trong nội thành của địa cấp thị. Người Trung Quốc xem Quế Lâm là nơi tuyệt nhất dưới thiên đường.

Năm 314 TCN, một nhóm định cư nhỏ được thiết lập dọc bên bờ sông Li Giang. Nhà Tần thành lập quận Quế Lâm tại khu vực ngày nay là nội thành Quế Lâm. Năm Nguyên Đỉnh thứ 6 (111 TCN), vào thời Hán Vũ Đế của nhà Hán, huyện Thủy An (始安) được thành lập, đây được xem như thời điểm bắt đầu của địa cấp thị này. Thời Đông Hán, lập Thủy An hầu quốc. Năm Cam Lộ thứ nhất (265) thời Tam Quốc, thuộc về Đông NgôMạt đế cho thành lập quận Thủy An. Năm 507, được đổi tên thành Quế Châu. Khoảng năm Hồng Vũ thờinhà Minh, đổi lộ Tĩnh Giang thành phủ Quế Lâm. Thời nhà Thanh và Trung Hoa dân quốc nó là thủ phủ tỉnh Quảng Tây (trừ giai đoạn 1912-1936 thủ phủ tỉnh là Nam Ninh). Đến thời Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thì thủ phủ tỉnh Quảng Tây chuyển về Nam Ninh cho tới tận hiện nay. Theo dòng lịch sử, Quế Lâm là trung tâm chính trịkinh tế và văn hóa của khu vựcLĩnh Nam. Năm 1981, Quế Lâm được Quốc vụ viện CHND Trung Hoa liệt kê cùng ba thành phố khác (Bắc KinhHàng Châu và Tô Châu) trong danh sách các thành phố cần được bảo tồn hàng đầu về các di sản lịch sử và văn hóa, cũng như cảnh quan thiên nhiên.


Tượng quận (chữ Hán: 象郡), trong các sách sử, là tên một quận do Tần Thủy Hoàng đặt ra sau khi thôn tính vùng đất phía nam Ngũ Lĩnh (Bách Việt).
Trong giới sử học từng có quan điểm khác nhau về Tượng quận.
Có ý kiến (như học giả L. Aurousseau) cho rằng Nhật Nam vốn là quận Tượng thời Tần Thủy Hoàng và Tượng quận bao trùm cả Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam thời Hán sau này[1]. Vì vậy, đã có sự đồng nhất giữa Tượng quận thời Tần và huyện Tượng Lâm thời Hán[2].
Các nhà nghiên cứu hiện nay dẫn các ý kiến, của H. Maspero, Vũ Phạm Khải, Tá Bá Nghĩa Minh, thống nhất phản bác ý kiến trên và khẳng định: Tượng quận mới được Tần Thủy Hoàng mở trong cuộc chiến tranh Việt-Tần ở phía nam Trung Quốc, trong đó quân Tần mới chỉ tiến tới Quảng Tây[3][4].
Viện Sử học Việt Nam dẫn Hán thư: "Năm thứ 5 niên hiệu Nguyên Phượng thời Hán Chiêu Đế (76 TCN), quận Tượng bị bãi bỏ, chia cắt vào hai quận Uất Lâm và Tường Kha". Quận Uất Lâm thuộc Quảng Tây, quận Tường Kha ở phía tây Uất Lâm và gồm một phần Quý Châu. Như vậy quận Tượng cũ của nhà Tần (bị bỏ thời Hán) là ở phía tây Quảng Tây và một phần Quý châu[3]. Trị sở của quận Tượng, theo Mậu Lăng thư do Hán thư dẫn tại phần chú, là đất Lâm Trần ở phía tây Nam Ninh, thuộc huyện Tân Dương, tỉnh Quảng Tây[4].
Học giả Cát Kiếm Hùng có ý kiến tương tự về vị trí Tượng quận là ở phía tây Quảng Tây[5].
Cả ba quận Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam do nhà Hán đặt sau này không nằm trong quận Tượng. Các sử gia căn cứ thêm vào Sử ký Tư Mã Thiên dẫn chứng: khi Triệu Đànhân nhà Tần suy yếu, chiếm 3 quận Nam Hải, Quế Lâm và Tượng (chiếm được trong chiến tranh Việt-Tần) để thành lập nước Nam Việt (207 TCN) thì Nam Việt chưa bao gồm Âu Lạc. Chỉ tới "sau khi Lã hậu mất (180 TCN)", Triệu Đà mới chiếm lãnh thổ Âu Lạc và chia thành 2 quận Giao Chỉ và Cửu Chân[4]. Còn đất đai Nhật Nam thời Hán - mà trong đó có huyện Tượng Lâm sau này tách ra thành nước Lâm Ấp (năm 192) - chỉ được nhập vào lãnh thổ chung với miền Bắc và miền Trung Việt Nam ngày nay lần đầu tiên vào thời thuộc Hán, sau khi Hán Vũ Đế đánh chiếm Nam Việt (111 TCN, Nam Việt khi đó bao gồm cả Việt Nam), các quan cai trị Giao Chỉ tiến xuống thu phục các bộ tộc phía Nam dãy Hoành Sơn và hình thành quận Nhật Nam[6].
Theo các trường Đại Học Nhân Dân, Đại Học Phúc Đán, và Đại Học Bắc Kinh ở Trung Quốc thì vị trí quận Tượng đã được xác định. Quận Tượng gồm 6 huyện, trên đất bây giờ là huyện Tịnh (Tĩnh) tây nam tỉnh Hồ Nam miền nam huyện Kiếm Hà, Cẩm Bình ở miền đông tỉnh Quý Châu, miền sông đầm miền tây của huyện Nhung Giang tỉnh Quảng Tây, huyện Triết Thành, Bạch Sắc miền tây tỉnh Triết Giang, miền tây nam núi Đại Minh của Nam Ninh cho đến biên giới Trung Việt, một giải Quảng Nam, Phúc Ninh ở đông nam tỉnh Vân Nam.
Các học giả hiện nay thống nhất với H. Maspero lý giải rằng: sở dĩ có sự nhầm lẫn đồng nhất Tượng quận thời Tần và Nhật Nam thời Hán, vì quận Nhật Nam thời Hán có huyện Tượng Lâm ở cực nam: Tượng quận là cực nam của đế chế Tần và Tượng Lâm ở cực nam đế chế Hán - điều này gây ra sự lầm lẫn đó[4].



Các quận Lĩnh Nam thuộc thời Tần/Hán
Tượng Quận



Giao Chỉ và Tượng Quận

Nam Việt thời Triệu Đà
Các văn bản đều khẳng định thời Tần chưa đánh Giao Chỉ (VN). Giao Chỉ thuộc Nam Việt sau khi Triệu Đà phản phé Tần, chiếm một vùng to đoành, sau đó thịt nốt Âu Lạc aka Giao Chỉ.


Tượng quận dưới thời HánVũ đế (140TCN – 87TCN) và Thiệu đế (86 TCN – 80 TCN).
Năm 112 TCN, nhà Hán sai quân sang xâm chiếm Nam Việt, nhà Triệu mất. Nước Nam Việt bị
Hán chiếm và đổi là Giao Châu, châu này đặt dưới quyền cai trị của quan thứ sử. Giao Châu chia
làm 9 quận: Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Nam Hải, Thương Ngô, Uất Lâm, Hợp Phố, Châu
Nhai và Đạm Nhĩ. Mỗi quận đều đặt một quan thái thú để cai trị.
Theo Hán Thư, quyển 7 9
 “ Thiệu Đế kỷ đệ thất" viết về việc bãi bỏ Tượng quận và chia quận
này làm hai, sát nhập vào hai quận Uất Lâm và Tường Kha : “Mùa thu, bãì bỏ Tượng Quận,
chia và sát nhập vào Uất Lâm, Tường Kha".
Thời Thiệu đế, Tượng quận đã bị phân chia vào các đơn vị hành chính khác và địa danh này đã không còn ngoại trừ trong cổ sử



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét